Hình minh họa lấy trên net.
(... tiếp theo và hết.)
Nãy gìơ bạn đọc
phần trên tôi viết về nghĩa trang xứ đạo tôi ở ngày cũ. Tất cả những gì tôi thấy
thật tốt lành nếu như! Nghĩa trang không có thêm cái “góc nghĩa trang buồn” mà
cha xứ ngày đó lập ra. Dù xấu tốt, đúng sai tôi cũng xin kể thêm sau đây:
Lâu lắm không về,
nay lại về đúng vào dịp lễ, tôi may mắn và hân hạnh được hòa nhập tham dự vào
những ngày lễ chính này, (hình như có hai ngày chính, một là lễ các linh hồn và
một vào ngày mùng 2 tết) và cảm nhận được nỗi xót xa về thân phận con người, cùng
chứng dám được mọi người trong xứ tôi, đã tỏ lòng hiếu thảo của họ với thân nhân.
Đây cũng lại là dịp mọi người có cơ hội gặp nhau, tôi thật ngỡ ngàng khi gặp lại
bạn bè với những kinh ngạc khi hỏi ra mới biết là những người bạn này còn, nhưng
những người bạn kia thì đã mất. Lòng chạnh bùi ngùi xúc cảm, không thể làm ngơ được,
và để nhớ về bạn, về nhau với đầy ắp những kỷ niệm êm đềm của cả một thời thanh
xuân. Tôi lấy một nắm hương, đốt sẵn cầm trên tay, tìm gặp thân nhân bạn bè đã
khuất của tôi, để xin họ dẫn tôi đến thăm viếng nơi an nghỉ của những bằng hữu
cũ. Để ít ra cũng còn có nén hương tưởng nhớ về nhau, thay cho lời từ biệt. Tôi
được dẫn ra sát chân tường phiá trái của nghiã trang, đi trên con đường đất gồ
ghề, lủng củng những gạch cùng vữa, một bên là bức tường rào nghiã trang, một bên
là rừng cây bạch đàn để đi sâu vào phía cuối của nghiã trang hoang vắng, trong
cùng kiệt của một góc xa, tưởng như ai đó dẫn tôi đi lạc vào một vùng hoang vắng,
xa lạ! Nhưng không phải, họ đã dẫn tôi đến đúng nơi có mấy ngôi mộ, tuy cũng được
xây mồ mả khang trang đẹp đẽ, đèn nến, hương hoa đầy đủ, kinh kệ râm ran dòn dã,
nhưng nhìn mặt những người thân yêu của họ không có được những nét của sự bình
yên như phần đông những người mà tôi gặp ở khu lễ đài, họ có thái độ khác, một sự
tự ti, mặc cảm! Trên nét mặt họ hiện rõ lên một nỗi buồn tủi đớn đau, vì người
chết cũng không còn bình đẳng được với nhau nữa. Tôi hỏi họ bộ ngoài kia không
có đất sao mà lại đưa vào nơi này mà chôn cất người thân? Họ cho biết thân nhân
họ bị phạt! Bị phạt! Nghe sao mà đau xót qúa!!! Nó như là một dấu ấn đóng vào
trán những thân nhân, sự việc này làm cho tôi hơi bị hẫng.
Ông Phạm Văn Ngọ,
hay người ta thường gọi là ông Ngọ già, để phân biệt với Ngọ trẻ, ông Tư Ngọ. Khi
di cư vào Nam, ông còn trẻ lắm, mới hơn 20 tuổi, sống bình thường với mọi người
nơi xứ đạo ở Tân Mai. Qua mai mối, ông cưới vợ, vợ ông là con của một ông trùm
họ trong xứ. Vợ chồng cưới nhau chưa được bao lâu, ông bị vướng vào một việc có
liên quan đến pháp luật, ông bị truy tố ra tòa và bị tù. Ở nhà, người vợ trẻ không
chờ ông, dù mới xa cách chưa được bao lâu, vợ ông đã bỏ ông theo người khác, đau
đớn hơn nữa là người chồng mới của vợ, lại là người bạn thân của ông. Nên ông
không những mất vợ, mà còn mất luôn cả người bạn thân!
Ra tù, ông kêu gọi
vợ trở về, ông bỏ hết không chấp nhất những lầm lẫn của vợ, ông coi đó như những
vận hạn phải có của con người, chuyện gì đã qua cho qua luôn. Ông chiụ như vậy,
nhưng vợ ông không chiụ, bà bỏ đi khỏi xứ, dù chính cha mẹ của bà đã hết lời
khuyên răn, rồi năn nỉ, bà mặc, bỏ ngoài tai nhắm mắt đi theo con đường sai lạc.
Để đến nỗi, cha của bà nhục nhã với xóm làng, xứ đạo, và cũng buồn với chàng rể,
không chiụ nổi tiếng thị phi, đã chấp nhận lỗi nghĩa cùng Chúa, ông nhảy lầu tự
tử.
Ông Ngọ cũng buồn
lắm, ông ở vậy và về Sài gòn theo làm cho linh mục Nguyễn Quang Lãm, làm việc
trong toà báo Xây Dựng, ông vẫn có ý chờ tin vợ có hối lỗi mà trở lại với ông
không. Không phải ông không lấy được vợ, nhưng theo luật đạo không cho phép ông
được cưới vợ lần nữa, theo luật một vợ một chồng và có nghĩa ông phải sống như
vậy suốt đời, nếu không sẽ mất phép thông công, dù lỗi không thuộc về ông. Chờ
như vậy trong mòn mỏi đâu được cỡ gần mười năm, ông không còn hy vọng gì nối lại,
khi hay tin người vợ cũ đã có con cái đùm đề với người chồng mới, ông nản chí. Đúng
lúc ấy, ông gặp được một cô gái quê, người miền Nam quê ở Gò Công lên thành phố
làm ăn, trai goá vợ gặp gái chưa chồng, cùng ở vào lúc cô đơn nơi xứ lạ, cần có
người dựa dẫm, hợp cùng với sự yếu đuối dễ thương của con người, nên ông cũng
chẳng thể nào mà không xa ngã, thế là hai người ráp lại thành cặp tình nhân, họ
yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân. Khi cô gái viết thư về nhà xin phép cha
mẹ, cha mẹ cũng đồng ý cho con lấy chồng Bắc kỳ và yêu cầu con phải dẫn chàng rể
về gặp cha mẹ, gặp nhau, chàng rể so với bố vợ suýt soát tuổi nhau, nhưng ông cũng
đành chấp nhận, vì cũng chẳng thể nào làm khác hơn được, họ sống với nhau như vậy,
trong ngang trái của luật đạo, người vợ sau của ông do không cùng tôn giáo nên
sống rất thanh thản vô tư, nhưng ông thì luôn bị dằn vặt trong tâm hồn vì những
điều sai phạm luật Đạo.
Sau năm 1975, lúc
này ông đã có cả một bầy con, và tuổi tác cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa, ông
dắt bầu đoàn thê tử về Bùi chu sống nốt những ngày còn lại, mong được gần gũi với
những người cùng quê hương, cùng tôn giáo, cùng lúc ông phải sống trong những
lo âu phập phồng về những việc ông làm trong đời sống, mà ông đã phạm, mà ông đã
lỗi nghĩa cùng Chúa. Đời sống giờ đây đã khó khăn hơn, kiếm ăn lúc này cũng cả
là một sự nhọc nhằn, lại bị dằn vặt về đời sống tâm linh, ông ngày một héo hắt,
tính tình ông trở lên cọc cằn, khó tính. Ông cố gắng đi lễ đi nhà thờ hàng ngày,
cùng hối lỗi về những việc đã làm, cùng xin Chúa thứ tha cho ông. Nhưng ông chỉ
có thể đưa những đứa con theo được đạo cha mà thôi, còn về người vợ và phép hôn
phối ông sai phạm thì đành chiụ lỗi nghĩa trước mặt Chúa vậy. Do những lý do trên,
ông Ngọ đã phải chôn nơi góc nghiã trang này, trước khi qua đời, ông cũng biết
là như vậy, và chẳng phàn nàn gì.
Ở xứ người, cùng
một tôn giáo và ở vào tình huống éo le như ông Ngọ. Họ có thể được giáo hội cho
gỡ phép hôn phối nơi toà án hôn phối của giáo hội, nếu như hai người có phép hôn
phối mà không ở được với nhau, căn cứ vào các điều luật có quy định rõ ràng, họ
sẽ được giáo hội thứ tha, để được tự do và kết hôn theo giáo luật, và sinh hoạt
bình thường trong hội thánh. Và nếu ông Ngọ sống ở nơi này, chắc chắn ông được
về với Chúa trong an bình hạnh phúc.
Trần Hoài Ngọc,
sống ở Bùi Chu liên tục từ những ngày đầu mới lập xứ, những ngày tháng còn trẻ,
anh sống cũng bình thường như những người cùng trang lứa, có máu văn nghệ, chơi
đàn và thổi kèn Clarinet, tiếng kèn cũng rất bay bướm, nhưng anh có tật mê đỏ đen.
Sau năm 1975, anh do không có nghề nghiệp gì, nhà cửa lại bị cháy do chiến
tranh, con cái đã đông, lo ăn đã khó nói chi đến chơi bời đen đỏ. Vợ chồng xoay
buôn bán đủ nghề, từ cà phê, bún riêu, bún mọc, làm rẫy, làm nương, chẳng có cái
gì mà anh không lao vào làm, nhưng chẳng có gì thành công. Nghĩ buồn, đôi khi
anh tìm quên trong men rượu, những lỗi lầm ấy trong luật đạo cũng vẫn còn được
tha thứ.
Ngặt có một điều,
khi anh không uống rượu, anh rất ít nói, chỉ ai hỏi anh mới trả lời, ấy vậy mà
khi uống vào mấy ly, anh không còn làm chủ được bản thân của mình, anh nói huyên
thuyên và gặp người vui anh cũng nói chuyện vui theo, ai hát, anh hát theo, nhưng
nếu gặp người xấu, nói chọc anh cũng dễ dàng nổi nóng, còn gặp những người can
phá, anh cũng sẵn sàng đập phá tan hoang. Ai gây sự, anh cũng chơi luôn, lúc đó
trời đối với anh cũng còn qúa nhỏ, gia đình anh thường xuyên bất hòa vì những lúc
anh quậy phá trong men rượu. Sau những cơn sóng gió như vậy, khi tỉnh lại, ai gặp
anh, ai cũng cảm thấy anh buồn vời vợi, như biết được lỗi mình đã làm, nên chỉ
ngồi thừ ra hàng giờ không nói. Tưởng chuyện của anh cũng chỉ đến vậy rồi thôi,
chẳng có gì đáng nói.
Vào một buổi tối,
hôm mà cách nay cũng hơn mười năm, tuổi đời anh cũng đã bước vào cái tuổi tri
thiên mệnh, chẳng biết ai đã cho anh uống mấy ly rượu, bước đi đã xiêu vẹo, chân
nam đá chân chiêu, đi đứng đã chẳng còn vững vàng được nữa, từ ngã ba Trị An,
anh đi vào khu chợ, đến nhà ai đó ngủ nhờ. Bỗng đi qua mấy quán chồm hổm bán đồ
nhậu buổi tối, có mấy anh em dân quân đang nhậu, anh Ngọc đi qua miệng lảm nhảm,
một người dân quân đe nạt anh: “Say rồi về ngủ đi ông tướng ơi.’’ Trong men rượu,
máu anh bốc rất nhanh “Á đứa nào vậy nhẩy? Đứa nào mà dám chọc bố! Máu rượu
trong anh bốc lên mặt bừng bừng khiến anh quát lại:
“Đứa nào nói tao
say, ông đập thấy mẹ cả lũ bây giờ.’’ Mấy người dân quân thường thì thấy mấy
tay hay nhậu xỉn họ bỏ qua, không chấp và còn dìu về nhà cho ngủ, cho yên ắng xóm
làng, nhưng hôm nay, họ cũng đã uống hơi nhiều, họ cũng có rượu, nghe anh Ngọc
nói thế này thì láo thật, (giờ thì họ chẳng gọi anh Ngọc là anh nữa, dù anh đã
lớn tuổi,) thằng này láo; chẳng còn coi ai ra gì nữa hẳn? Ai nghe anh hỏi cũng
tức, nên cũng chẳng ai can được ai, một người đứng lên sừng sổ tiến đến bên anh
Ngọc nắm cổ áo:
“Đánh bỏ mẹ à,
tao này, mày dám đánh không? Anh ta xô nhẹ, anh Ngọc già xỉn yếu xìu sao bì được
với sức trai, anh té bò càng, mãi mới bò dậy nổi, nhưng cái miệng thì nào có
chiụ thua, anh vẫn chửi bới om sòm, lại còn mạnh miệng đe giết mấy anh dân quân
nữa chứ. Một hồi lâu anh bỏ đi, sau do men rượu hãy còn cao, chưa tỉnh lại ngay
được, lại như tức qúa nên anh quay trở lại chửi tiếp, mấy anh dân quân hè nhau đánh,
chẳng biết có ai đập vào đầu anh, khiến anh té nhào rồi nằm im. Anh nằm ngay bên
vệ đường một đống, mấy người còn thức thấy anh nằm vậy không ổn, họ sợ xe cộ chạy
qua không nhìn thấy anh, nhỡ cán phải người anh thì tội, người ta mới hè nhau khiêng
anh vào hiên nhà anh giáo Lân cho nằm đó, cứ tưởng anh xỉn qúa, để cho anh ngủ
cho yên giấc, rượu gĩa đi, khi thức dậy sẽ tỉnh. Sáng hôm sau, có người thấy
anh cứ nằm im không nhúc nhích, mới gọi người nhà đưa anh đi nhà thương, nhưng
không còn cứu kịp nữa, mới đầu người nhà cứ ngỡ anh say rượu trúng gió chết,
sau mới nghe anh bị đánh, gia đình nhờ nhà chức trách điều tra, Hội đồng pháp y
xác nhận anh bị đánh nên chết, Vinh (Thiên) bị bắt vì nghi là thủ phạm đã đánh
chết anh, hồ sơ pháp y rành rành ra đó. Nhưng anh vẫn bị phạt, vì trước đó có
ai đó đã báo với cha xứ là anh tự tử mà chết! Ngài cũng nhanh nhẩu ban lệnh:
“phạt!” Khỏi điều tra.
Đinh Thành Tín
(Toán) sinh ra trong gia đình ai cũng biết uống tí rượu, hình như có người em út
thì ít uống, chuyện chẳng có gì đáng nói, rượu của Tín, Tín uống, lè nhè một tí
rồi quay ra ngủ, chẳng phiền hà gì ai, cũng chẳng quậy phá chi, vợ con anh cũng
hơi buồn với anh tí chút về tật nghiền rượu nhưng cũng vẫn phải chấp nhận anh
như là người có cái tật xấu vậy thôi.
Hàng ngày, anh vẫn
phụ vợ con tí chút trong công việc bán buôn kiếm sống, có đồng ra đồng vào để
nuôi bầy con nhỏ dại, sáng anh vẫn thường dậy sớm đi lễ, chiều đi nhà thờ, con
cái cũng được hết mực khuyên răn tham gia trong các đoàn thể trong giáo xứ. Chỉ
có một điều, không có tí rượu vào người, thì hình như máu trong người anh nó không
luân lưu được hay sao đó, nên không có rượu, người anh bả ra, trông thê thảm lắm,
mặc dù anh cũng muốn bỏ, nhất là sau khi anh bịnh, phải đi nằm bịnh viện một thời
gian. Sự nghiện rượu của anh, chỉ gây phiền hà tí chút cho gia đình, chứ riêng
anh, anh chưa làm điều gì phiền phức đến ai, say chỉ nói lảm nhảm và làm trò để
mọi người vui thôi.
Một hôm, anh thấy
người anh khó chiụ, anh nói vợ anh dìu lên giường, vợ anh xốc nách anh nên, và
ngạc nhiên thấy anh nặng qúa, lý do là anh không đủ sức nương theo vợ để gượng
dậy được, nên cả sức nặng bản thân anh trì nặng lên đôi bàn tay gầy của vợ, hỏi
sao không nặng được! Vợ thấy lạ la lên xin người giúp đỡ, người ta chạy vào giúp
vợ anh, kêu xe đưa đi bệnh viện, nhưng không cứu kịp và anh qua đời, rất tự nhiên
bình thường, thế mà anh cũng bị phạt, vì cũng ai đó đã nhanh chân, không biết có
phải do động cơ thù ghét gì gia đình anh không? Họ đã báo với cha xứ là anh đã
tự tử mà chết! Khỏi cần điều tra hư thực, cha xứ ban lệnh: “Phạt!” Trên đây là
ba trường hợp mà tôi được nghe kể, không có lời bình về những người nằm trong góc
nghĩa trang này.
Với sự hiểu biết
kém cỏi về những tín lý trong đạo, bản thân tôi tự nghĩ. Nếu như Thiên Chúa không
yêu thương loài người, Ngài chỉ cho liên tiếp những cơn đại hồng thuỷ để xoá đi
những con người tội lỗi trên trần gian, cho đến khi nào con người đều trở lên tốt
lành theo thánh ý ngài là xong. Cần chi phải hy sinh con một Ngài lặn lội xuống
thế để ban ơn cứu chuộc. Chứ chỉ dùng hình phạt để tạo uy quyền thì quá dễ. Tiếc
thay, xứ đạo tôi đã một thời dùng những hình phạt này. Tệ hơn nưã, khi cha xứ
ban lệnh hình phạt với ai đó. Thì gia đình đó coi như cô lập hẳn trong cộng đoàn,
thiếu hẳn đi tiếng cầu kinh của các đoàn thể, xóm thôn. Xác không được làm phép
và giáo dân không được đi đưa tiễn theo kinh nhà đạo đã dậy: chôn xác kẻ chết!
Dù ai cũng muốn được một lần đi tiễn đưa nhưng vẫn e dè cha xứ phạt luôn mình,
nên chẳng ai dám néo hánh tới trừ người trong gia đình! Tôi cho việc làm đó thiếu
tình thương và tính người. Nghiã tử là nghiã tận, và nếu như ai đó có sai phạm,
thì mình cần phải cầu nguyện nhiều hơn mới đúng, chứ không lẽ còn đưa chân ra đạp!
Nhớ lại trong
kinh thánh Tân ước, đoạn nói về người đàn bà ngoại tình với câu dậy bất hủ của
Chúa; (Ai vô tội hãy ném đá người này) Thì ra xứ đạo tôi rất nhiều người sạch tội,
có thật thế không? Nên những người đã chết nằm trong những huyệt mộ này, họ đã
bị những người vô tội đó ném đá đúng như lời Chúa dậy trong kinh thánh, để chết
thêm một lần nữa! Người chết thì đã yên vị, nhưng người sống phải đớn đau tủi hổ!
Gần mươi ngôi mộ trong góc nghiã trang buồn. Tôi thắp những nén hương đi rảo cắm
cho từng ngôi mộ, như để có thêm một chút an ủi cho những ai nằm tại nơi này, đứng
đọc kinh cùng các gia đình họ để cùng thông phần với niềm đau chung của nhau mà
nghe dâng lên một nỗi nghẹn ngào. Tôi chẳng biết nói gì hơn với lời an ủi những
người còn sống: (Nếu Chúa cũng chấp tội Chúa ơi! Ai sống nổi!! Bởi vì Chúa từ
bi và nhân hậu, ngài độ lượng và chan chứa tình thương). Rồi lầm thầm cầu xin để
nếu được thì đừng có cái góc nghiã trang này, và xin từ nay đừng có ai phải mang
ra đây an nghỉ nữa thì mừng biết mấy, mong lắm thay! Bởi vì cái góc nghiã trang
này nó như vết bớt mờ mờ trên một khuôn mặt rất đẹp và thanh tú. Như cát lẫn
trong ngọc. Ra về lòng tôi mang nỗi buồn day dứt.
Để nhớ Trần Hoài Ngọc, Đinh Thành
Tín, Vũ văn Hưng, Ông Ngọ.
Melbourne Phục sinh 2004.
No comments:
Post a Comment